Đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch
Thứ sáu, 20/09/2024 - 14:00
Kiên quyết, không ngừng đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, phản động bảo vệ sự trong sáng, cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhiệm vụ then chốt, đặc biệt quan trọng, thường xuyên, liên tục của toàn Đảng, toàn Quân và toàn dân. Đây còn là vấn đề cấp thiết, mang tính tất yếu và là quy luật trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc bước vào thời kỳ mới, thời kỳ quốc tế hóa, hội nhập sâu rộng toàn cầu.
Ảnh minh họa
Trải qua hơn 94 năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước đã cho thấy, nhờ kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công, giành được những thắng lợi to lớn. Những thắng lợi đó đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, vị thế đất nước ngày càng được nâng lên. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Hiện nay, cục diện thế giới và khu vực tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Tình hình trong nước còn tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn định. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”. Đặc biệt, là những kết quả đạt được trong việc chỉ đạo công tác này trên không gian mạng: “Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”. Bên cạnh đó, Đại hội XIII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch thời gian qua: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”. Một trong những nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là “một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”.
Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, bất mãn, với mục tiêu chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trước hết là tập trung chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng đã lợi dụng và thổi phồng những hạn chế đó, rồi xuyên tạc, quy chụp nguyên nhân là do chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cứ trong các dịp Đảng ta tiến hành sự kiện trọng đại hay có sự thay đổi về lãnh đạo cấp cao, thì sự chống phá của các thế lực thù địch càng ráo riết hơn, quyết liệt hơn. Mục đích của chúng là không thay đổi, song thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Viện dẫn sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, chúng rêu rao rằng, chủ nghĩa Mác-Lênin là lỗi thời, cổ hủ, lạc hậu, đã và đang đi vào diệt vong; chủ nghĩa đó chỉ phù hợp nhất thời đối với nước Nga vào thế kỷ XX, không phù hợp với Việt Nam. Học thuyết Mác chỉ là giả thuyết không tưởng. Sứ mệnh của giai cấp công nhân “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn vạn lần xã hội cũ” là viển vông. Theo họ, giai cấp công nhân, trong đó có cả lãnh tụ của giai cấp đó là những người có học vấn thấp, giỏi lắm chỉ có thể lật đổ được chế độ xã hội cũ, chứ không thể lãnh đạo cải tạo và xây dựng thành công một xã hội tốt đẹp hơn, nhất là trong thời đại khoa học, công nghệ phát triển. Chúng rêu rao vậy, nhưng trên thực tế lại cho thấy chủ nghĩa đế quốc với bản chất phản động, thối nát, xâm lược, hiếu chiến là căn nguyên của mọi cuộc chiến tranh, là nguồn gốc của áp bức, bóc lột gây ra nỗi thống khổ đau thương của nhân loại và hiện vẫn đang diễn ra ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới nhất là Bắc Phi, Trung Đông và hiện tại là chiến sự ở Ukraine. Thế nhưng chúng trốn tránh điều đó; đồng thời còn ngụy biện hết sức lố bịch rằng: chính “nguyên lý về đấu tranh giai cấp” và “nguyên tắc tập trung dân chủ” của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự cổ vũ cho bạo lực và độc tài.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội còn ra sức xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa cực đoan, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm phương tiện để thực hiện tư tưởng của mình nên đã tạo ra những sai lầm lịch sử. Chúng còn tìm mọi cách để bôi nhọ thanh danh, xuyên tạc, bóp méo sự thật về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bất chấp việc Người là hiện thân, biểu tượng về nhân cách, luôn ở trong con tim, khối óc của nhân dân Việt Nam và thế giới vì những cống hiến, hy sinh vĩ đai của Người vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Dù các thế lực thù địch có nói gì đi chăng nữa, thực tiễn luôn là minh chứng, thước đo hùng hồn, chính xác nhất để kiểm chứng sự đúng, sai học thuyết, đường lối lãnh đạo của các chính đảng. Những thành tựu rất đáng tự hào, khởi đầu từ Cách mạng tháng 8 năm 1945, nhất là sau 35 năm đổi mới của cách mạng Việt Nam là minh chứng hùng hồn, không ai có thể xuyên tạc, bác bỏ được vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và nền tảng tư tưởng của Đảng.
Sự chống phá đó ngày càng có sự phát triển, biến đổi đa dạng, tinh xảo về thủ đoạn; từ lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, sự bùng nổ về công nghệ thông tin, truyền thông, tăng cường hợp tác, mở cửa của Đảng, Nhà nước ta, đến lợi dụng ngay những khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức quản lý kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng. Đáng chú ý là, bên cạnh các thế lực thù địch, các phần tử chống cộng cực đoan, gần đây còn có sự phụ họa của một số phần tử cơ hội chính trị, bất mãn và cả một số ít cán bộ, đảng viên bị chúng lợi dụng. Dù có cố tình che đậy như thế nào chăng nữa, nhưng mục đích, mưu đồ của chúng không hề thay đổi là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng cho rằng: “Công cuộc đổi mới đất nước sau nhiều năm vẫn giữ nguyên chế độ độc đảng, đảng trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc sâu sắc”. Vì vậy, cần thay đổi Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị toàn trị sang dân chủ.
Những ý kiến như vậy đã được làm rõ từ lâu và đã bị thực tế lịch sử hoàn toàn bác bỏ. Dân chủ và sự phát triển, ổn định của một quốc gia không phụ thuộc vào đa đảng hay độc đảng mà phụ thuộc chủ yếu vào bản chất của đảng cầm quyền khi đảng đó đại diện và phục vụ cho ai là chủ yếu. Ở nước Mỹ có hơn 100 chính đảng khác nhau nhưng chỉ có hai đảng ganh đua cầm quyền là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ, song thực chất dù hai nhưng chỉ là một. Vì hai đảng đó đều có cùng mục đích phục vụ chủ yếu cho lợi ích của giai cấp tư sản, giới nhà giàu; trong khi họ chỉ chiếm 01% dân số nhưng thâu tóm tới 35% tài sản và 21% thu nhập của đất nước. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa đa nguyên, đa đảng với dân chủ cũng đưa ra kết luận tương tự như vậy. Trong khi đó, ở Việt Nam, do một đảng độc tôn lãnh đạo nhưng đã tạo ra sự phát triển vượt bậc về kinh tế - xã hội và giữ vững được sự ổn định chính trị, điều mà trong hoàn cảnh lịch sử, xã hội tương tự khó có quốc gia nào theo thể chế đa nguyên có thể làm được.
Hiện nay, với việc nước ta hợp tác song phương, đa phương, là bạn là đối tác tin cậy của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới, trên cơ sở lợi ích hài hòa, chia sẻ rủi ro. Đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước ta được chính phủ nhiều nước, như: Nga, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… mời tới thăm và được đón tiếp theo nghi thức nguyên thủ quốc gia đã cho thấy vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được thừa nhận và tôn trọng trong quan hệ quốc tế. Điều đó còn cho thấy, dưới ánh sáng chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân ta, dân tộc ta vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác; tình cảm, niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với Đảng ngày càng cao; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. Đồng thời cho thấy, mọi sự phê phán chế độ chính trị ở Việt Nam là “độc đảng, toàn trị” chỉ là sự định kiến, áp đặt khiên cưỡng với dụng ý xấu.
Nguyễn Trung Hiếu