Phát triển mạnh bộ đội chủ lực sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Thứ hai, 28/10/2024 - 15:04
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Quân đội ta còn nhỏ bé, nhiệm vụ chủ yếu là tuyên truyền, hỗ trợ lực lượng chính trị và vũ trang ở các địa phương, đẩy mạnh phong trào cách mạng; chiến đấu chống thực dân, phong kiến, làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành khởi nghĩa. Chưa đầy một năm sau khi thành lập, từ đội quân còn nhỏ bé, song với ý chí “Quyết chiến - Quyết thắng”, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, Quân đội ta đã ngày càng phát triển, thực sự là lực lượng nòng cốt, tin cậy của Đảng và nhân dân, cùng toàn dân làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Quân Giải phóng và Tự vệ Thành duyệt binh tại Quảng trường Nhà hát lớn.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc Tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; trong đó, lực lượng chính trị quần chúng giữ vai trò chủ yếu, quyết định; LLVT và đấu tranh vũ trang giữ vai trò quan trọng và làm nòng cốt. Đảng ta nhận định: Nếu trước đó không xây dựng LLVT và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị. Và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi”.
Tư lệnh Việt Nam Giải phóng quân Võ Nguyên Giáp duyệt binh lần đầu tiên ở Hà Nội ngày 26/8/1945, sau khi giành được chính quyền.
Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã xác định: “Tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên”, đồng thời “phải duy trì lực lượng vũ trang (LLVT) trong các địa phương”, chia LLVT cách mạng thành “đội quân chủ lực” và “các đội vũ trang địa phương”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức LLVT đã được thực hiện trong xây dựng, phát triển Việt Nam Giải phóng quân trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Các chi đội Giải phóng quân, các đội du kích, các đội tự vệ của các chiến khu, các địa phương cùng với nhân dân hợp thành đội quân khởi nghĩa, hỗ trợ đắc lực cho lực lượng chính trị giành chính quyền về tay nhân dân trên cả nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng mới được thành lập, đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù, nhiều đội quân xâm lược hiếu chiến. Tuy mỗi kẻ thù toan tính một kế hoạch riêng đối với nước ta, nhưng chúng đều thống nhất một mục tiêu là tiêu diệt quân đội và chính quyền cách mạng Việt Nam. Đứng trước các thế lực thực dân, đế quốc và lực lượng phản cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương vừa tranh thủ hòa bình, ngăn chặn và đẩy lùi chiến tranh, chỉ đạo kháng chiến ở Nam Bộ, vừa khẩn trương xây dựng, phát triển LLVT nhân dân. Trung ương Đảng và Chính phủ đã tập trung xây dựng Việt Nam Giải phóng quân, sau đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội Quốc gia Việt Nam, để đưa vào Nam chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đang ở tình thế nguy cấp. Một bộ phận Vệ quốc quân, Quân đội Quốc gia - các chi đội Giải phóng quân, chi đội Vệ quốc quân trở thành bộ đội địa phương ở các tỉnh, thành phố. Một số tỉnh Bắc Bộ, Trung Bộ tổ chức bộ đội cảnh vệ. Ở Nam Bộ, ngoài các chi đội Vệ quốc quân ở miền Bắc, miền Trung vào, bộ đội địa phương được xây dựng, phát triển dưới nhiều hình thức tổ chức như LLVT của Tổng công đoàn, Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa...
Khi quân đội Anh, Nhật, Tưởng lần lượt rút khỏi nước ta và các thế lực tay sai phản động, giả danh cách mạng, chống phá chính quyền cách mạng non trẻ từng bước bị tiêu diệt, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Quân ủy lãnh đạo, chỉ đạo tập trung xây dựng LLVT, nòng cốt là bộ đội chủ lực để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Theo đó, các chi đội Vệ quốc đoàn ở Bắc Bộ, Trung Bộ chấn chỉnh tổ chức, thống nhất biên chế theo từng đơn vị cấp trung đoàn (32 trung đoàn) và 32 tiểu đoàn độc lập. Riêng Nam Bộ, do chưa có đủ điều kiện chấn chỉnh các chi đội thành trung đoàn nên vẫn tổ chức chi đội (25 chi đội). Trên cơ sở các trung đoàn, giữa năm 1946, Bắc Bộ tổ chức 2 Đại đoàn: 1 và 2; Nam Trung Bộ tổ chức 3 Đại đoàn: 23, 27 và 31. Các đơn vị bộ đội chủ lực được gọi là đại đoàn, song mới chỉ là về hình thức tổ chức, thu gom lực lượng, còn trang bị vũ khí, đặc biệt là trình độ tác chiến rất hạn chế. Sớm nhận thức được cách tổ chức đó chưa phù hợp, tháng 11/1946, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo giải thể các đại đoàn ở Bắc Bộ, Nam Trung Bộ. Lúc này, tổ chức cao nhất của bộ đội chủ lực ở miền Bắc là trung đoàn (27 trung đoàn) và miền Nam là chi đội (25 chi đội). Bên cạnh việc xây dựng tổ chức biên chế các đơn vị chủ lực bộ binh, một số tổ chức tiền thân của binh chủng kỹ thuật cũng được xây dựng. Ngày 29/6/1946, 3 trung đội pháo binh gồm: Pháo Đài Láng, Xuân Tảo, Xuân Canh được thành lập. Đây là những trung đội pháo binh chủ lực đầu tiên của Quân đội ta.
Ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và mệnh lệnh của Chính phủ, các LLVT và nhân dân ta nhất tề đứng lên cầm vũ khí bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh chống thực dân Pháp xâm lược. LLVT nhân dân bước vào thời kỳ phát triển mới, ngày càng hoàn thiện, lớn mạnh, với 3 thứ quân gồm: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Bộ đội chủ lực giữ vị trí chiến lược chủ yếu trong đấu tranh vũ trang, có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là thực hiện những đòn đánh tiêu diệt lớn lực lượng chủ lực của địch, giải phóng và bảo vệ những vùng đất quan trọng, phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, thực hiện những đòn đánh quyết định trên hướng chiến lược chủ yếu, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta, tiến lên đánh bại ý chí xâm lược của địch, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh.
BAN BIÊN TẬP