Chuyện người lính già và tấm Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên

Thứ tư, 03/04/2024 - 09:15

Ban đầu cả làng có 7 chiến sĩ Điện Biên. Trải qua năm tháng họ cứ lần lượt ra đi, đến nay chỉ còn lại  một người lính già 90 tuổi. Cuộc đời ông trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Bây giờ với ông, thứ quý giá nhất luôn ở bên ngực trái mình là tấm Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên…                    

Năm 1949 giặc Pháp nhảy dù chiếm làng, rồi cho xây dựng bốt Thiên (nay thuộc phường Thái Học, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương) lập làng tề làm một cứ điểm quân sự. Chúng tăng cường đôn quân bắt lính, xua quân đi càn quét vùng tự do, tìm diệt lực lượng kháng chiến, thực hiện âm mưu bình định vùng đồng bằng sông Hồng, làm bàn đạp đánh phá cơ quan đầu não kháng chiến của ta ở Việt Bắc. 

 

Ông Nguyễn Văn Sập, chiến sĩ Điên Biên

Không chịu nổi cảnh tàn sát của giặc Pháp, năm 1952 khi mới 17 tuổi, chàng thanh niên Nguyễn Văn Sập là con út một gia đình nông dân nghèo đã  trốn nhà đi bộ đội. Vượt qua đường 18 đầy bốt giặc, anh tìm đường vào Đồng Châu, xã Hoàng Hoa Thám là khu căn cứ của Việt Minh xin đầu quân đi chiến đấu. Được biên chế vào Trung đoàn 246, anh cùng đồng đội vừa hành quân lên Tây Bắc vừa rèn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Vừa được 2 tuổi quân, một vinh dự lớn đối với người lính trẻ Nguyễn Văn Sập là anh được điều về đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, được giao nhiệm vụ chiến đấu trong đại đội trinh sát. Anh cùng đồng đội luồn sâu vào cứ điểm Độc Lập, đồi A1 vẽ địa hình, theo dõi quy luật di chuyển của địch để báo cáo cấp trên, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Điện Biên.    

 Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc được giải phóng. Đơn vị anh sau đó cơ động lên huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai làm nhiệm vụ tiễu phỉ. Chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt là thế mà anh chẳng hề hấn gì, vậy mà ở mặt trận giữ gìn cuộc sống yên bình của núi rừng Tây Bắc, anh đã bị thương trong một trận đọ súng với thổ phỉ. 20 tuổi đời, đang phơi phới sức xuân, anh thương binh Nguyễn Văn Sập khoác ba lô phục viên về làng. Nhìn tấm Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên lấp lánh trên ngực anh, gia đình, người thân tự hào lắm, còn người làng ai nấy đều nể phục. Nhà nghèo, mẹ già, cha mất sớm, khi đó người anh trai cũng là bộ đội tham gia chiến đấu chưa thấy trở về. Anh tích cực lao động sản xuất, trong tổ đổi công, rồi vào hợp tác xã nông nghiệp để nuôi nấng mẹ già. Rồi anh lấy vợ, hai vợ chồng tảo tần sớm khuya, bám đồng ruộng, trong 3 năm sinh hai đứa con.

Những tưởng thế là yên phận, nhưng tiếng súng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam vẫy gọi anh. Năm 1965, anh tái ngũ lên đường. Biết anh là chiến sĩ Điện Biên, đã kinh qua chiến đấu, cấp trên giao cho anh chức vụ Tiểu đội phó ở Trung đoàn 2, Sư đoàn 308. Chiến đấu ở nhiều mặt trận, tham gia các trận đánh lớn ở Bình Long, Phước Long, từng nhiều lần chết hụt trong trận Đồng Xoài, Long An... Cũng từ trong chiến đấu, anh đã nhanh chóng trưởng thành, được bổ nhiệm chức vụ Đại đội phó ở một đơn vị làm nhiệm vụ bảo đảm thuộc Cục Hậu cần Quân khu 7. Đơn vị anh bấy giờ có nhiệm vụ vận tải hàng phục vụ chiến trường, từ miền Bắc chuyển vào, từ biên giới Cam-pu-chia chuyển sang. Những chiếc xe đạp thồ được sử dụng để vận chuyển các loại súng, đạn và lương thực, nhu yếu phẩm phục vụ chiến đấu. Không chỉ thế, xe còn cáng thương binh qua những chặng đường dài hàng chục cây số đường rừng núi, vượt bao bãi mìn và những trận B52 địch rải thảm.

Vào một ngày cuối năm 1967, khi ở phum Tà Ao thuộc đất Cam-pu-chia, đơn vị anh được bổ sung một số tân binh quê từ miền Bắc. Thật sung sướng,  trong số đó có một người cùng làng. Anh ta hớn hở báo rằng: Nơi quê nhà vợ anh mới sinh hai con gái! Giật mình. Thoạt đầu anh tưởng nghe lầm, sau bình tâm lại, bỗng  nhớ ra. Lên đường  tái ngũ tháng 8 năm 1965, nhưng trước khi đi B, anh được phép về thăm gia đình vào dịp Tết năm Bính Ngọ (1966). Anh không biết rằng, sau mấy ngày phép ấy, ở nhà vợ anh đã mang thai, rồi sinh đôi 2 con gái. Nhận tin nhà giữa chiến trường, anh không giấu được niềm vui.

Sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975, anh vẫn công tác ở Cục Hậu cần Quân khu 7. Năm 1979, anh được điều về tăng cường cho tỉnh Đồng Nai làm công tác tổ chức xây dựng Đảng. Người ta còn cấp cho anh tấm thẻ ưu tiên để mua vé xe để đi công tác cơ sở, với chức danh là cán bộ Tiểu ban bảo vệ Đảng. Thế nhưng chưa quen hết việc ở đây thì anh lại có quyết định từ Đồng Nai trở ra Bắc, về Đoàn 870 thuộc Quân khu Thủ đô công tác. Cuối cùng, lại từ  Quân khu Thủ đô bổ sung về một đơn vị trung đoàn, không phải làm nhiệm vụ chiến đấu, mà là nhiệm vụ sản xuất tăng gia, đóng quân tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, với cấp bậc Đại úy, Tiểu đoàn trưởng. Năm 1982, ở tuổi 47 người chiến sĩ Điện Biên năm ấy, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Sập lại khoác ba lô về làng. Lần này về là anh chính thức nghỉ hưu.

Suốt hai cuộc kháng chiến, trải qua 20 năm trận mạc, chàng trai làng Thiên (nay là Khu dân cư Lạc Sơn, phường Thái Học, thành phố Chí Linh) đi qua bao nhiêu tên làng, tên đất, từ Tây Bắc xa xôi, vào nam, sang nước bạn, làm nhiều nhiệm vụ khác nhau như trinh sát, hậu cần, vận tải, xây dựng đảng, kể cả   tăng gia sản xuất… 

Ông Sập về hưu khi gần 50 tuổi, chưa phải già, cũng không còn trẻ nữa. Ngày đầu, sau chút ngỡ ngàng sau nhiều năm xa quê, ông tiếp tục cày cuốc, chăn nuôi trồng trọt cùng người vợ đã đằng đẵng chờ chồng 10 năm thờ mẹ, nuôi con. Hai con lớn đến tuổi trưởng thành, ông dựng vợ gả chồng cho các con yên bề gia thất. Lương hưu bộ đội và phụ cấp thương binh hạng 4/4 không đủ chi dùng cho gia đình, ông dành dụm tiền mua máy xay sát bột cho trẻ em, xay đỗ gia công để hàng ngày có thêm đồng tiền mua rau mắm. 

Khu dân cư có 7 chiến sĩ Điên Biên, theo thời gian họ cứ lần lượt ra đi đến nay chỉ còn mình ông. Những năm trước, ông Sập cùng các bạn rủ nhau tự lập ra “Hội gia đình chiến sĩ Điện Biên”, ông vẫn mời các bạn về nhà mình gặp mặt. Có năm, đủ cả 7 đôi vợ chồng trong Hội tập trung, vui lắm.... Các ông ôn lại một thời hoa lửa, xông pha trên chiến trường Tây Bắc, chiến dịch Điện Biên Phủ với biết bao kỷ niệm oai hùng. Còn các bà tâm sự nỗi niềm người ở hậu phương, có người nuôi con thăm thẳm đợi chồng. Họ động viên nhau sống vui những năm tháng cuối đời. Tấm  ảnh kỷ niệm  năm ấy, bây giờ  trở thành vật vô giá.     

Mới năm trước, vợ ông-người bạn đời đã đột ngột ra đi, khiến ông thêm  hẫng hụt.

Mỗi năm cứ đến ngày lịch sử 7-5, ông lại lặng lẽ mở chiếc hộp nhỏ, lấy tấm Huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên ra, nhè nhẹ lau chùi, rồi đeo bên ngực trái. Những hoài niệm một thời trận mạc của người lính già lại ùa về…

Thiên Gia Trang